Thiếu kỹ năng số và nhân lực, thiếu nền tảng công nghệ thông tin đủ mạnh để chuyển đổi kỹ thuật số, thiếu tư duy kỹ thuật số, hoặc các thách thức về văn hóa doanh nghiệp vẫn là những điểm yếu trong công cuộc chuyển đổi số.
Từ trước đại dịch Covid-19, International Data Coperation đã dự báo, đến năm 2022, giá trị chuyển đổi số trên thế giới ước đạt 2.000 tỷ USD và tăng trưởng cao gấp 4 lần so với mức tăng trưởng trung bình của thị trường dịch vụ công nghệ thông tin. Sau đại dịch, mọi việc có thể còn tiến nhanh hơn nữa.
Tại Việt Nam, theo Báo cáo về nền kinh tế số tại Đông Nam Á của Google, Tamesek và Bain & Company năm 2019 kinh tế số của Việt Nam và Indonesia tăng trưởng như "rồng được tháo xích" và dẫn đầu khu vực Đông Nam Á (khoảng 38%) và dự kiến có thể đạt mục tiêu 43 tỷ USD vào năm 2025.
Đại dịch Covid-19 sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp trong khu vực tiến hành chuyển đổi số nhanh hơn nữa. Trong kinh tế số, "nền tảng số" đóng vai trò quan trọng. Tại Việt Nam, khái niệm này liên tục được nhấn mạnh trong "Chiến lược chuyển đổi số quốc gia" công bố năm 2019. Tuy nhiên, kinh tế nền tảng nên được đối xử như thế nào trong chiến lược chuyển đổi số, một cách phù hợp và khả thi, dường như vẫn còn khá mơ hồ.
Những con số từ trước Covid-19 cho thấy quá trình chuyển đổi số tại Việt Nam diễn ra chậm chạp do thiếu kỹ năng số và nhân lực, thiếu nền tảng công nghệ thông tin đủ mạnh để cho phép chuyển đổi kỹ thuật số, thiếu tư duy kỹ thuật số, hoặc các thách thức về văn hóa trong doanh nghiệp vẫn là những điểm yếu trong công cuộc chuyển đổi số.
Nguyên Viện trưởng Viện Công nghệ thông tin, Đại học Quốc gia Hà Nội - ông Nguyễn Ái Việt cho rằng, chiến lược kinh tế số rất quan trọng, tạo cơ hội cho các quốc gia phát triển trước nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình.
Nói cách khác, đây là phương thức kinh tế mới. Kinh tế số được hiểu là số hóa các dữ liệu, gồm hạ tầng kết nối, hạ tầng thiết bị. Trong khi Việt Nam hiện chưa có hành lang pháp lý cho việc lưu, mã hóa dữ liệu, cũng như nguồn lực, doanh nghiệp chưa thể hiện ưu thế rõ ràng so với doanh nghiệp nước ngoài. Thậm chí, doanh nghiệp vẫn yếu về năng lực công nghệ, tư duy kinh doanh số.
Theo đánh giá của các chuyên gia, khó khăn lớn nhất của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam khi triển khai các công nghệ mới là không gắn kết được lợi ích của chuyển đổi số với mục tiêu kinh doanh. Việc thuyết phục từng phòng ban chấp nhận thay đổi thói quen và hợp tác là quá trình không hề dễ dàng với các nhà quản lý công nghệ.
Chẳng hạn, muốn phòng Marketing chuyển đổi số, các vị trí lãnh đạo như CIO, CTO phải hiểu và nói chuyện với nhân sự marketing bằng ngôn ngữ của chính họ, phải kết nối với đại diện, nhà quản lý các phòng ban này, hoặc bước đầu thành lập một ủy ban chuyển đổi số để tìm sự đồng thuận. Khi đó, quá trình thực hiện sẽ không diễn ra rời rạc giữa bộ phận công nghệ và các bộ phận nghiệp vụ khác như tình trạng thường thấy hiện nay tại doanh nghiệp…
Quá trình chuyển đổi số trong doanh nghiệp Việt Nam diễn ra khá sớm nhưng tốc độ chậm vì nhiều nhà lãnh đạo doanh nghiệp quá thận trọng và cân nhắc rủi ro. Giai đoạn 2013 khi vấn đề cơ sở dữ liệu lớn (big data) bắt đầu được đề cập, nhiều doanh nghiệp Việt cho rằng "vẫn còn là chuyện xa vời", nhưng chỉ vài năm sau big data đã hiện hữu ở mọi lĩnh vực kinh doanh.
Chẳng hạn trong ngành bán lẻ, đối thủ của các doanh nghiệp trong ngành này có thể không còn là cửa hàng tiện lợi mà là các hãng xe công nghệ. Với tiềm lực có sẵn, họ có thể kết nối với hàng ngàn tiệm tạp hóa truyền thống để thay đổi bức tranh thị trường.
Thực tế hiện nay đã cho thấy đối thủ có thể đến từ các quốc gia khác, họ dùng công nghệ và tiềm lực tài chính siêu mạnh để nhảy vào cả các lĩnh vực truyền thống tưởng chừng chỉ có người Việt Nam mới làm được. Doanh nghiệp Việt vì thế phải nghiên cứu lường trước những thay đổi có thể xảy đến như vậy.
Nhiều chuyên gia còn cho rằng nhận thức về chuyển đổi số của nhiều lãnh đạo doanh nghiệp mới chỉ thiên về công nghệ, nhưng thực tế việc chuyển đổi phải bắt đầu từ mô hình kinh doanh và tư duy lãnh đạo. Vai trò của công nghệ thông tin chưa đi cùng các nhà quản lý về chiến lược kinh doanh của một tổ chức, nên đa số các doanh nghiệp Việt vẫn đi chậm so với doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài.
Theo khảo sát của Công ty PwC Consulting Việt Nam, đa phần lãnh đạo doanh nghiệp các lĩnh vực này đều xem chuyển đổi số là cơ hội duy nhất để tồn tại trong môi trường cạnh tranh.
42% doanh nghiệp Việt Nam và 36% doanh nghiệp khu vực châu Á - Thái Bình Dương đang đầu tư vào các startup địa phương, cho thấy ngày càng nhiều đơn vị muốn trở thành "doanh nghiệp số" thông qua việc đầu tư vào các cách làm mới, các phép thử mới.
Theo Việt Hưng – The Leader